(Cadn.com.vn) - Ở tuổi gần 70, với nhiều người, đây là lúc để nghỉ ngơi an nhàn, song ông Đỗ Đức Quang (quê
Điện Bàn, Quảng Nam), trú nhà số 216, đường Trường Chinh, P. Trà Bá, TP
Pleiku (Gia Lai) vẫn mày mò chế tạo máy hái, đào bồn ép, bón phân cho
cây cà- phê giúp nông dân giải phóng sức người.
Thợ "chân đất" sáng chế máy hái, máy xới đào bồn cà- phê
Ở
Pleiku, không khó để chúng tôi lần tìm về xưởng cơ khí của ông Quang,
vốn nằm trên tuyến đường Trường Chinh sầm uất. Bên trong xưởng cơ khí,
giữa những tiếng ồn ào của máy móc, ông Quang cùng những người thợ đang
mày mò chế tạo để hoàn thiện những thiết bị máy móc cho khách hàng.
Khi
biết chúng tôi đến để tìm hiểu những sáng chế mà mình đã thực hiện
trong thời gian qua, ông cười xòa đôn hậu, kể: "Sở dĩ, tôi có ý tưởng để
chế những chiếc máy trên chính là do xuất phát từ cái tâm 40 năm nghề
của mình. Khi chứng kiến bà con nông dân ở Gia Lai cứ đến mùa trồng cà-
phê là phải chạy đôn chạy đáo tìm kiếm lao động hái, đào bồn ép xanh,
bón phân cho cây cà-phê để kịp mùa vụ, vừa tốn kém tiền của nhưng lại
khan hiếm lao động... tôi quyết tâm phải tìm ra cách giải quyết bài toán
trên".
 |
Máy hái cà-phê được ông Quang thử nghiệm tại vườn cà-phê. |
Sau
nhiều tháng thai nghén ý tưởng, năm 2008, ông bắt đầu mày mò chế tạo ra
dòng máy hái cà- phê với năng suất làm việc đã được thực tiễn chứng
minh có thể thay thế từ 6-7 lao động, mức tiêu thụ năng lượng ít, có thể
hoạt động liên tục, trong khi giá thành để bán một máy ra thị trường
chỉ 5 triệu đồng. Sản phẩm làm ra không đủ để cung cấp cho bà con.
Không
dừng lại ở đó, một năm sau (2009), khi thấy nông dân phải tự tay xới,
đào bồn để bón phân cho cây cà- phê mất khá nhiều thời gian, ông lao vào
nghiên cứu và bắt đầu sáng chế ra loại máy xới đào bồn cà- phê giúp
nông dân chủ động về lao động. Ban đầu, ông mua động cơ loại máy VYKYNO
loại 4 thì, xy lanh có công suất 5,5 mã lực (3.600 vòng/phút); dung tích
thùng nhiên liệu 5 lít, nhớt 0,5 lít rồi bắt đầu tự thiết kế dàn xới có 4
lưỡi x 4 cánh/lưỡi, tổng cộng có 16 cánh; bề rộng dãy xới lớn nhất 30
m, độ sâu lớn nhất 20 cm; máy được thiết kế theo kiểu truyền động, côn
ly hợp tự động, có kích thước dài 1,4 m, rộng 0,4 m, cao 0,5 m, trọng
lượng chỉ 39kg, gọn nhẹ nên chỉ cần 1 người điều khiển.
Quá
trình thực nghiệm cho thấy máy đạt hiệu quả cao, có thể thay thế cho 10
lao động, tương đương với 300 gốc cà-phê/1 ngày với mức tiêu hao nhiên
liệu chỉ khoảng 5-6 lít xăng. Tính ra, 1 ngày dùng máy để đào 300 gốc
cà-phê chỉ mất khoảng 300 ngàn đồng (xăng
khoảng 130 ngàn+ 170 tiền công/1 người), trong khi nếu sử dụng 10 người
để đào 300 gốc cà- phê thì riêng tiền công đã ngốn hết 1,7 triệu đồng.
Trong khi giá thành bán 1 máy ra thị trường chỉ 9 triệu đồng. Đó còn
chưa kể máy có tính cơ động cao, thao tác dễ dàng, thích hợp với các địa
hình vườn cà-phê. Trong quá trình sử dụng nếu có hỏng hóc bộ phận nào
cũng dễ thay thế. Bên cạnh đó, máy còn được sử dụng để đào xới đất khi
trồng rau, trồng ngô, đậu đỗ các loại và còn đào rãnh bón phân cho cây
cao su...
Chính
sự hữu ích của 2 dòng máy trên nên sản phẩm luôn được bà con chấp nhận,
hàng làm ra không đủ bán (trung bình xưởng của ông 1 tuần chế được 5
máy), đến nay, ông đã bán ra thị trường hơn 1.500 chiếc.
 |
Ông Quang đang hướng dẫn để thợ chế tạo hoàn thiện máy đào xới cà-phê tại xưởng. |
Tuổi thơ gian khó...
Điều
làm chúng tôi bất ngờ là, vì điều kiện khó khăn của gia đình nên ông
Quang chỉ mới học đến lớp 3 rồi bỏ dở và bắt đầu kinh qua nhiều nghề đủ
khắp các tỉnh thành từ khi còn nhỏ tuổi.
Ông
cho hay, những người thân trong gia đình kể lại, năm ông 3 tuổi đã phải
mồ côi mẹ, một vài năm sau, bố cũng đi tập kết ra Bắc. Lúc này, ông lớn
lên trong tình thương của những người họ hàng. Năm 1963, thời gian này,
Điện Bàn quê ông là cái nôi của cách mạng, ông cũng tham gia hàng ngũ
những người cách mạng, làm "biệt động thành", và chỉ một năm sau thì bị
lộ nên phải trốn vào Sài Gòn, làm công nhân kéo đường dây điện cho Sở
điện lực Thủ Đức. Đến năm 1970, ông bị chính quyền ngụy (Sài Gòn) bắt đi
lính, đưa lên hoạt động ở Quân đoàn 2 ở khu vực Tây Nguyên. Tại đây,
ông đào ngũ để trốn về nhà ông anh ở P. Hội Phú (Pleiku ngày nay) làm
nghề sửa xe máy để kiếm sống qua ngày. Năm
1975, ông xin vào chạy xe cho đơn vị lính công binh X17 đóng tại Tây
Nguyên. Quá trình phục vụ trong quân đội, ông được giới thiệu để sửa
chữa một số máy móc thiết bị, và chỉ hơn 1 năm sau, ông cưới vợ, rồi bắt
đầu ra ngoài để làm nghề cơ khí từ đó đến nay.
Nói
về mình, ông tâm sự rằng đến hôm nay, mình làm việc không phải bận bịu
suy nghĩ đến đồng tiền để sống qua ngày nữa mà quan trọng hơn, chỉ mong
sao mình còn đủ sức khỏe để được tiếp tục làm việc, vừa tạo công ăn việc
làm cho gần 10 người thợ tại xưởng (lương được ông trả từ 3-6 triệu
đồng/1 người) vừa có điều kiện để chế tạo máy giúp bà con nông dân đỡ
vất vả đi phần nào! Sau hàng chục năm lao động cần cù, ông không chỉ no
đủ về của cải mà quan trọng hơn, 8 người con mà vợ chồng ông nuôi dạy
bao năm qua, ai cũng thành đạt khi đều tốt nghiệp đại học và có công
việc ổn định. Có lẽ đó chính là tài sản lớn nhất của đời mình mà ông đã
để lại.